HIỆP ĐỊNH
VỀ QUY CHẾ BIÊN GIỚI
QUỐC GIA
GIỮA CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
VÀ CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN
DÂN LÀO
Chính phủ Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào;
Căn cứ Hiệp ước hữu nghị
và hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào ký ngày 18 tháng 7 năm 1977;
Căn cứ Hiệp ước Hoạch
định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Công
hoà dân chủ nhân dân Lào ký ngày 18 tháng 7 năm 1977 và Hiệp ước Bổ sung Hiệp
ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước ký ngày 24 tháng 01 năm 1986;
Với lòng mong muốn không
ngừng củng cố và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trên cơ sở
những nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, hợp tác về mọi mặt theo nguyên tắc cùng có lợi và
hết lòng giúp đỡ nhau;
Để xây dựng biên giới
hữu nghị lâu dài giữa hai nước, góp phần bảo vệ an ninh biên giới, tăng cường
tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước và tạo thuận lợi cho việc sinh
sống của nhân dân hai bên biên giới;
Đã quyết định ký Hiệp
định về Quy chế biên giới quốc gia giữa hai nước và cử đại diện toàn quyền ký
Hiệp định này;
Hội đồng Bộ trưởng Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cử đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao;
Hội đồng Bộ trưởng Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào cử đồng chí Phun Xipaxớt, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Chương 1:
VIỆC BẢO VỆ ĐƯỜNG BIÊN
GIỚI VÀ CÁC MỐC QUỐC GIỚI
Điều 1.
a. Đường biên giới quốc gia giữa Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào được quy định bởi Hiệp ước
Hoạch định biên giới quốc gia giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng
hoà dân chủ nhân dân Lào ký ngày 18 tháng 7 năm 1977 và Hiệp ước Bổ sung ký
ngày 24 tháng 01 năm 1986 cùng các văn bản, phụ lục, tài liệu, bản đồ, sơ đồ về
phân giới trên thực địa và cắm mốc kèm theo các Hiệp ước nói trên, bao gồm:
- Nghị định thư ký ngày 24 tháng 01 năm 1986 và
Nghị định thư bổ sung ký ngày 16 tháng 10 năm 1987.
- Các biên bản phân giới và cắm mốc trên thực
địa các đoạn biên giới đã miêu tả toàn bộ đường biên giới Việt Nam - Lào .
- Các biên bản cắm mốc trên thực địa đã miêu tả
từng mốc quốc giới.
- Các mảng sơ đồ đường biên giới Việt Nam - Lào
tỷ lệ 1/25.000 đã vẽ toàn bộ đường biên giới Việt Nam - Lào.
- Các sơ đồ vị trí mốc quốc giới tỷ lệ 1/5000 và
tỷ lệ 1/10.000 vẽ vị trí từng mốc quốc giới.
- Các ảnh của từng mốc quốc giới.
b. Đường biên giới nói ở khoản a điều này cũng
là đường dùng để phân ranh giới vùng trời và lòng đất giữa hai nước vạch theo
hướng thẳng đứng.
Điều 2.
Hai Bên ký kết có nhiệm vụ bảo vệ tôn trọng
đường biên giới giữa hai nước, bảo vệ toàn bộ hệ thống mốc quốc giới giữa hai
nước.
Việc giải quyết vấn đề đường biên giới thuộc
thẩm quyền của cơ quan Nhà nước cao nhất. Các Bộ, các ngành và các địa phương
của hai Bên không được phép thoả thuận bất kỳ sự sửa đổi nào về đường biên
giới, nếu có những thoả thuận như vậy thì những thoả thuận đó hoàn toàn không
có giá trị và phải huỷ bỏ.
Điều 3.
Hai Bên ký kết phân công bảo quản các mốc quốc
giới giữa hai nước như sau:
a. Các mốc quốc giới đặt trên lãnh thổ Bên nào
thì Bên đó chịu trách nhiệm bảo quản (Phụ lục l).
b. Các mốc quốc giới đặt trên chính tâm đường
biên giới được phân công như sau (Phụ lục 2):
- Bên Việt Nam chịu trách nhiệm đối với các mốc
số chẵn.
- Bên Lào chịu trách nhiệm đối với các mốc số
lẻ.
Nếu vì địa hình hiểm trở một Bên không đi tới
được mốc mình được phân công phụ trách thì có thể giao cho Bên kia bảo quản
thay theo sự thoả thuận của hai Bên.
c. Nếu cần thiết, hai Bên ký kết sẽ cùng nhau
thoả thuận điều chỉnh sự phân công nói trên.
Điều 4.
Ở những nơi có điều kiện thuận lợi, mỗi Bên phát
quang xung quanh mốc quốc giới do Bên mình phụ trách để dễ nhận thấy.
Ở nơi nào cần thiết và có điều kiện thuận lợi,
hai Bên ký kết phát quang dọc theo biên giới sâu vào lãnh thổ mỗi Bên 5 mét
(năm mét), dải phát quang này không phải là đường biên giới.
Điều 5.
Nội dung công tác bảo quản các mốc quốc giới là:
giữ cho vị trí, loại mốc, hình dáng, kích thước, ký hiệu, chữ và mầu sắc của
mốc giới đúng với quy cách mà Uỷ ban Liên hợp đã thoả thuận trong các văn kiện
về phân giới và cắm mốc.
Điều 6.
a. Hai Bên ký kết cùng khôi phục, sửa chữa mốc
quốc giới hoặc phân công một Bên khôi phục, sửa chữa với sự có mặt của đại diện
Bên kia.
Đối với mốc bị phá hoại hoặc hư hại, sau khi
khôi phục hoặc sửa chữa xong hai Bên chụp lại ảnh mốc và làm biên bản xác nhận
sự khôi phục hoặc sửa chữa đó.
b. Nếu vì lý do địa hình thực tế không thể làm
lại mốc giới ở vị trí cũ thì đội kiểm tra liên hợp cần đề nghị vị trí mới và
chỉ được tiến hành xây dựng ở vị trí mới sau khi Chính phủ của hai Bên chuẩn y.
Việc xây dựng lại mốc quốc giới phải tiến hành
đúng theo Điều 5 Hiệp định này và không được làm thay đổi đường biên giới. Nếu
xây dựng lại mốc ở vị trí cũ thì ghi ký hiệu và chữ đúng như mốc cũ, nếu xây
dựng mốc ở vị trí mới thi ghi năm xây dựng mới ở mặt mốc.
Sau khi xây dựng xong phải làm biên bản, vẽ sơ
đồ vị trí và chụp ảnh mốc quốc giới theo thể thức mà Uỷ ban Liên hợp đã quy
định.
c. Khi có cơ sở xác định rõ ràng mốc quốc giới
bị công dân một Bên phá hoại hoặc làm hư hại Bên đó phải chịu toàn bộ phí tổn
về việc khôi phục hoặc sửa chữa mốc quốc giới đó; trường hợp do nguyên nhân
khách quan thì kinh phí do hai Bên cùng chịu.
Điều 7.
Mỗi Bên tổ chức tuần tra để bảo vệ biên giới và
bảo quản các mốc quốc giới mà mình phụ trách. Đường tuần tra ở trên lãnh thổ
Bên mình.
Khi phát hiện mốc quốc giới có hiện tượng khác
thường hoặc bị mất, Bên phát hiện cần thông báo ngay cho bên kia để cùng kiểm
tra xác nhận, làm biên bản và báo cáo lên cấp trên của mình.
Điều 8.
Khi cần thiết, hai Bên tổ chức các đội kiểm tra
liên hợp để tiến hành kiểm tra song phương đường biên giới hoặc các mốc quốc
giới.
Biên bản kiểm tra song phương làm thành hai bản,
mỗi bản bằng hai thứ tiếng Việt Nam và Lào, có chữ ký của đội trưởng đội kiểm
tra và cán bộ kỹ thuật hai bên nếu có.
Điều 9.
a. Hai Bên ký kết thường xuyên tiến hành việc
tuyên truyền giáo dục công dân ở dọc biên giới nước mình tham gia bảo vệ Các
mốc quốc giới và hết sức giúp dỡ các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra biên giới.
b. Mỗi Bên ký kết xử lý theo pháp luật của nước
mình những người cư trú trên lãnh thổ mình đã phá hoại, làm hư hại hoặc tự ý xê
dịch, di chuyển mốc quốc giới, ngăn cản các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra
biên giới.
Điều 10.
Hai Bên ký kết có những biện pháp kiên quyết
ngăn chặn mọi hành động dẫn đến sự thay đổi đường biên giới trên các sông suối
biên giới.
Bên nào vi phạm quy định trên đây gây thiệt hại
cho Bên kia phải có trách nhiệm bồi thường thích đáng và phá huỷ các công trình
đã dẫn đến sự thay đổi đường biên giới, khôi phục lại nguyên trạng đường biên
giới.
Điều 11.
Mỗi khi phát hiện thấy một đoạn sông suối biên
giới đổi dòng làm ảnh hưởng đến đường biên giới giữa hai nước, các đồn Biên
phòng gần nhau làm biên bản chung, có chữ ký của Đồn trưởng đồn Biên phòng hai
Bên xác nhận việc đổi dòng và nguyên nhân của nó để báo cáo lên cấp trên của mỗi Bên.
Chương 2:
VIỆC QUA LẠI BIÊN GIỚI
Điều 12.
Hai Bên ký kết nhất trí rằng "khu vực biên
giới" nói trong Hiệp định này là khu vực bao gồm các xã hoặc đơn vị hành
chính tương đương của Việt Nam và các bản hoặc đơn vị hành chính tương đương
của Lào tiếp giáp với đường biên giới quốc gia giữa hai nước nhằm làm cho việc
qua lại biên giới của công dân cư trú trong khu vực biên giới của hai Bên được
thuận tiện, đáp ứng nhu cầu đời sống hàng ngày của họ và bảo đảm an ninh cho
mỗi khu vực biên giới.
Hai Bên ký kết sẽ thông báo cho nhau biết danh
sách các xã, bản hoặc đơn vị hành chính tương đương nói trên và nói rõ thuộc
huyện, tỉnh nào.
Điều 13.
Công dân cư trú trong khu vực biên giới của mỗi
bên từ 15 (mười lăm) tuổi trở lên được nhà đương cục có thẩm quyền của nước
mình cấp một giấy chứng minh hoặc giấy chứng nhận có ký hiệu riêng gọi là giấy
chứng minh hoặc giấy chứng nhận biên giới để phân biệt với công dân cư trú
ngoài khu vực biên giới. Hai Bên ký kết thông báo cho nhau biết ký hiệu của
giấy chứng minh hoặc giấy chứng nhận đó.
Điều 14.
a. Công dân cư trú trong khu vực biên giới bên
này được sang các xã, bản tiếp giáp và lân cận thuộc khu vực biên giới bên kia
để mua bán, trao đổi hàng hoá cần thiết cho đời sống hàng ngày, cho sản xuất,
thăm viếng người thân, xem phim, xem biểu diễn văn nghệ.
b. Hai Bên ký kết quy định thể thức, danh mục,
giá trị và số lượng hàng và tiền tệ mà công dân ở khu vực biên giới mỗi Bên
được phép mang qua biên giới theo khoản a. điều này.
Điều 15.
a. Khi có dịch bệnh với người, vật nuôi, cây
trồng ở trong khu vục biên giới một Bên, chính quyền địa phương bên đó phải có
biện pháp phòng chống kịp thời; đồng thời báo ngay cho chính quyền địa phương
Bên kia biết. Nếu được yêu cầu, Bên kia sẽ tích cực và kịp thời giúp đỡ với mọi
khả năng của mình.
b. Trong thời gian có dịch bệnh với người phải
tạm ngừng việc qua lại khu vực biên giới có dịch bệnh.
Khi có vật nuôi, cây trồng nào bị dịch bệnh phải
tạm ngừng việc mua bán, di chuyển qua biên giới vật nuôi, cây trồng đó.
c Việc tạm ngừng qua lại biên giới cũng như việc
tạm ngừng mua bán, di chuyển vật nuôi, cây trồng trong phạm vi xã, bản biên
giới hoặc đơn vị hành chính tương đương do chính quyền nơi đó quyết định và báo
cáo ngay lên cấp trên của mình.
Việc tạm ngừng qua lại tại các cửa khẩu chính
ghi trong Điều 18 của Hiệp định này do Chính phủ mỗi Bên ký kết quyết định và
thông báo cho Bên kia.
Điều 16.
Công dân của một Bên ở khu vực biên giới bị bệnh
hoặc tai nạn có thể trực tiếp liên hệ với cơ sở y tế của Bên kia nhờ giúp đỡ
cứu chữa; sau đó báo cho chính quyền phía Bên mình biết để liên hệ làm thủ tục
cần thiết với chính quyền Bên kia.
Điều 17.
a. Mỗi Bên ký kết giáo dục nhân dân ở khu vực
biên giới Bên mình tránh không để gia súc sang khu vực biên giới Bên kia phá
hoại hoa mầu. Trường hợp gia súc phá hoại hoa mầu, người chủ gia súc đó phải
bồi thường thích đáng theo sự thoả thuận của các bên đương sự.
b. Khi có gia súc ở khu vực biên giới Bên kia
sang khu vực biên giới Bên này, nhà chức trách và công dân Bên này giữ lại và
trông nom giúp, đồng thời báo ngay cho nhà chức trách Bên kia và chủ gia súc
biết để sang nhận và chủ gia súc phải trả tiền công trông nom gia súc đó. Trong
lúc gia súc còn dưới sự quản lý của mình, cấm bắt gia súc đó làm việc hoặc đánh
đập làm cho gia súc đó bị thương hoặc bị chết; nếu cố tình làm cho gia súc bị
thương hoặc bị chết, người trông nom phải bồi thường thích đáng.
c. Nếu các đương sự không thể tự giải quyết
được, chính quyền địa phương hai Bên giúp đỡ họ giải quyết trên tinh thần hữu
nghị anh em.
Điều 18.
Hai Bên ký kết thoả thuận mở 8 cửa khẩu chính
trên các đường bộ sau đây:
a.
Tên cửa khẩu phía Việt Nam
|
Đường qua biên giới
|
Tên cửa khẩu phía Lào
|
Tây Chang
|
Đường 42
|
Xốp Hun
|
Pa Háng
|
Đường 43
|
Xốp Bau
|
Na Mèo
|
Đường 217
|
Bản Lợi
|
Nậm Cắn
|
Đường 7
|
Nậm Căn
|
Keo Nưa
|
Đường 8
|
Keo Nưa (Na Pe)
|
Cha Lo (đèo Mụ Giạ)
|
Đường 12
|
Thông Khảm
|
Lao Bảo
|
Đường 9
|
Huội Ka Ky (Bản A Lôn)
|
Bờ Y
|
Đường 18
|
Giang Giơn
|
b. Ở những nơi xa các cửa khẩu nói ở khoản a .
Điều này, nếu xét thấy cần thiết, chính quyền cấp tỉnh hai Bên có thể thoả
thuận mở thêm những cửa khẩu phụ để thuận tiện cho công dân trú ở khu vực biên
giới qua lại. Việc kiểm soát qua lại biên giới ở cửa khẩu phụ phải theo nguyên
tắc kiểm soát chung.
***Gần đây đã được cập nhật
bổ sung một số cặp cửa khẩu Quốc tế và địa phương mới nhất. Xin xem trong bài Số lượng cửa khẩu trên biên giới Việt Nam –
Lào
được hai Bên thống nhất trong Hiệp định
quản lý biên giới
là bao nhiêu cặp?
Điều 19
Công dân của hai Bên ký kết khi qua lại biên
giới phải tuân theo những quy định sau đây:
a. Công dân cư trú trong khu vực biên giới của
mỗi Bên ký kết đi sang khu vực biên giới của Bên kia với mục đích nêu trong
Điều 14 của Hiệp định này phải có giấy chứng minh hoặc giấy chứng nhận như quy
định ở Điều 13 của Hiệp định này. Nếu đương sự muốn lưu lại khu vực biên giới
nơi đến quá 7 (bảy) ngày thì phải xin phép của chính quyền xã, bản nơi mình cư
trú hoặc đồn Biên phòng gần nhất bên mình. Thời hạn của giấy phép không quá 20
(hai mươi) ngày, nhưng có thể được chính quyền địa phương nơi đến gia hạn thêm
không quá 15 ngày.
Những người dưới 15 (mười lăm) tuổi chưa có giấy
chứng minh hoặc giấy chứng nhận biên giới được đi sang khu vực biên giới Bên
kia với điều kiện là đi kèm với người có giấy chứng minh hoặc giấy chứng nhận
biên giới.
Đương sự phải xuất trình giấy chứng minh hoặc
giấy chứng nhận biên giôi và giấy phép cho đồn Biên phòng hoặc chính quyền xã,
bản nơi đến.
b. Công dân của Bên ký kết này khi xuất, nhập
cảnh lãnh thổ của Bên ký kết kia phải tuân theo các quy định có liên quan của
mời Bên ký kết và các quy định đã được hai Bên thoả thuận.
c. Hàng hoá, vật tư, thiết bị (trừ các loại hàng
được phép mua, bán, trao đổi theo quy định của Điều 14 Hiệp định này) và các
loại phương tiện vận chuyển nhập cảnh, xuất cảnh phải có đầy đủ giấy tờ hợp lệ
của các cơ quan hữu quan, phải tuân theo luật lệ hải quan, kiểm dịch và luật lệ
liên quan khác của mỗi Bên.
Điều 20.
Việc kiểm soát qua lại biên giới quy định như
sau:
a. Người, hành lý, hàng hoá, phương tiện vận
chuyển chỉ được qua lại biên giới của hai Bên ký kết khi có đủ giấy tờ hợp lệ
như Điều 19 Hiệp định này quy định và phải qua đúng cửa khẩu đã được phép.
Đương sự phải xuất trình hộ chiếu hoặc giấy thông hành và các giấy tờ cần thiết
khác cho nhà chức trách và tạo điều kiện thuận lợi cho họ làm nhiệm vụ kiểm
soát tại cửa khẩu.
b. Hai Bên ký kết sẽ thoả thuận quy định những
trường hợp đặc biệt được miễn thủ tục hải quan.
Điều 21.
a. Trường hợp có công dân cư trú trong khu vực
biên giới Bên này xin di cư sang khu vực biên giới Bên kia, nếu thấy nguyện
vọng của họ là chính đáng, thì chính quyền cấp tỉnh của đương sự bàn bạc với
chính quyền cấp tỉnh phía Bên kia nếu được sự chấp nhận của chính quyền cấp
tỉnh phía Bên kia mới cho phép di cư.
b. Khi một Bên thấy công dân Bên kia tự tiện di
cư qua khu vực biên giới Bên mình thì phải báo cho Bên kia biết để chính quyền
cấp tỉnh hai Bên bàn bạc giải quyết trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và pháp luật
của mỗi bên.
Chương 3:
KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG
SÔNG SUỐI BIÊN GIỚI,
BẢO VỆ RỪNG, SĂN BẮN, KHAI KHOÁNG VÀ GIỮ GÌN
AN NINH TRONG KHU VỰC BIÊN GIỚI
Điều 22.
Sông suối biên giới là những sông suối có đường
biên giới đi giữa lạch sâu nhất vào lúc mức nước thấp nhất (nếu là sông suối
tàu thuyền đi lại được) hoặc giữa sông suối (nếu là sông suối tàu thuyền không
đi lại được)
Trong việc khai thác sử dụng các sông suối biên
giới, mỗi Bên ký kết cần áp dụng những biện pháp cần thiết bảo đảm tôn trọng
lợi ích của cả hai Bên.
Điều 23.
a. Công dân cư trú hai bên bờ sông suối biên
giới được sử dụng nước sông suối để đáp ứng các nhu cầu về sinh hoạt, sản xuất
và giao thông.
b. Việc làm các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện
và các công trình khác cỡ nhỏ trên các sông suối biên giới phải được phép của
chính quyền cấp tỉnh hữu quan của hai Bên ký kết trên cơ sở tôn trọng lợi ích
của cả hai Bên ký kết và tránh không được làm thay đổi dòng chảy và ô nhiễm môi
trường của các sông suối đó.
c. Việc xây dựng những công trình thuỷ lợi, thuỷ
điện và các công trình khác cỡ vừa hoặc lớn trên các sông suối biên giới, kể cả
các công trình xa đường biên giới nhưng có ảnh hưởng trực tiếp đến lưu lượng
nước và môi trường của các sông suối đó, phải được Chính phủ hai Bên ký kết
thoả thuận.
d. Hai Bên ký kết có những biện pháp bảo vệ môi
trường các sông suối biên giới.
Trong việc khai thác nguồn lợi thuỷ sản trên các
sông suối biên giới cấm dùng chất nổ, chất độc hoá học, các loại lá, rễ cây có
chất độc và các phương tiện khác có thể làm cho thuỷ sản chết hàng loạt.
Điều 24
a. Đối với cầu biên giới, mỗi bên ký kết quản lý
nửa cầu về phía bên mình.
b. Bên ký kết này phải thông báo cho Bên ký kết
kia về thời gian và nội dung sửa chữa, bảo dưỡng phần cầu do Bên mình quản lý.
Sau khi sửa chữa, bảo dưỡng xong phải thông báo cho Bên kia biết.
Phí tổn đối với việc sửa chữa, bảo dưỡng phần
cầu thuộc Bên nào do Bên đó chịu.
c. Việc xây dựng cầu mới hoặc xây lại cầu cũ bị
hư hỏng cần có sự thoả thuận của hai Bên ký kết về vị trí, hình dáng, kích
thước, cấu trúc, trọng tải, thời gian và kinh phí. Hai bên ký kết cần có sự hợp
tác tích cực trong việc xây dựng cầu đó.
Điều 25
a. Cấm công dân ở khu vực biên giới Bên này sang
khu vực biên giới Bên kia làm ruộng, rẫy, vườn, săn bắn, đốn cây, khai thác lâm
thổ sản, khoáng sản và thuỷ sản, trừ trường hợp được chính quyền cấp tỉnh hoặc
Chính phủ hai Bên cho phép.
b. Việc săn bắn trong khu vực biên giới phải
chấp hành theo các quy định có liên quan của mỗi Bên hoặc của các thoả thuận
của hai bên ký kết. Tuyệt đối cấm săn bắn các loại thú quý, hiếm trong khu vực
biên giới. Hai Bên ký kết sẽ cùng nhau quy định các loại thú đó.
Điều 26.
Hai Bên ký kết tăng cường hợp tác bảo vệ rừng và
có những biện pháp ngăn cấm mọi hành động gây hại cho rừng trong khu vực biên
giới. Khi một Bên bị sâu bệnh phá hoại hoa mầu, cây cối hoặc bị cháy rừng Bên
đó phải nhanh chóng diệt trừ sâu bệnh hoặc dập tắt đám cháy, đồng thời báo cho
chính quyền xã, bản hoặc đồn Biên phòng nơi gần nhất Bên kia biết để kịp thời
có biện pháp phòng ngừa. Nếu được yêu cầu, Bên kia cần tích cực và kịp thời
giúp đỡ với mọi khả năng của mình.
Điều 27.
a. Việc thăm dò địa chất và khai khoáng của mỗi
Bên ký kết trong khu vực biên giới chỉ được tiến hành trên lãnh thổ phía Bên
mình. Nếu việc thăm dò địa chất và khai khoáng đó có ảnh hưởng đến đường biên
giới giữa hai nước và tài nguyên của Bên kia thì phải được sự thoả thuận trước
của Bên đó trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau.
b. Khi một Bên tiến hành khảo sát bằng việc dùng
máy bay chụp ảnh từ trên không ở khu vực biên giới của mình cần thông báo cho
Bên kia biết trước. Nếu cần bay qua đường biên giới hoặc chụp ảnh khu vực biên
giới của bên kia thì phải được sự đồng ý trước của Bên kia thông qua đường
ngoại giao.
Điều 28.
a. Hai Bên ký kết hợp tác chặt chẽ giữ gìn an
ninh khu vực biên giới giữa hai nước, ngăn ngừa và đập tan mọi hành động xâm
phạm an ninh quốc gia, ngăn chặn buôn lậu.
b. Khi một Bên phát hiện hoạt động của biệt
kích, gián điệp và các phần tử xấu khác trong khu vực biên giới cần kịp thời
thông báo phía Bên kia biết và phối hợp hoạt động truy quét.
c. Công dân của một Bên phạm tội hình sự và bị
bắt trong khu vực biên giới của Bên kia thì bên bắt giữ tiến hành xét xử theo
pháp luật của mình; sau khi xét xử xong trao trả đương sự cùng hồ sơ vụ án và
tư trang của đương sự nếu có cho bên kia.
d. Cấm bắn súng và ném chất nổ qua bên kia biên
giới. Nếu một Bên muốn nổ mìn và luyện tập quân sự trong khu vực biên giới cần
thông báo trước cho Bên kia biết.
e. Mỗi Bên ký kết có nghĩa vụ bảo đảm an toàn
tính mạng và tài sản của những công dân thuộc khu vực biên giới Bên kia sang
khu vực biên giới Bên mình một cách hợp pháp. Trường hợp họ gặp tai nạn cần
tích cực và kịp thời giúp đỡ; đồng thời xác minh nguyên nhân tai nạn và thông
báo ngay cho chính quyền Bên kia biết.
g. Khi phát hiện thấy xác chết ở khu vực biên
giới mà không rõ người chết là người của Bên nào, Bên phát hiện phải thông báo
ngay cho phía Bên kia biết để cùng nhau xác minh. Nếu người chết là người của
Bên nào thì Bên đó chôn cất.
Sau hai mươi bốn giờ kể từ khi thông báo, nếu
Bên kia không đến thì Bên phát hiện làm các thủ tục cần thiết và được phép chôn
cất.
Điều 29.
Mỗi Bên ký kết xử lý thích đáng theo pháp luật
của Bên mình những người có hành động vi phạm quy chế biên giới.
Đối với những người vi phạm quy chế qua lại biên
giới nếu là công dân của Bên nào thì trao cho Bên đó xử lý, trừ những trường
hợp phạm pháp về hình sự.
Khi giao nhận người vi phạm nói trên cần làm
biên bản ghi nhận hành động vi phạm của họ; về tang vật thì xử lý theo pháp
luật của bên bắt giữ.
Chương 4:
TỔ CHỨC THỰC HIỆN HIỆP
ĐỊNH VỀ QUY CHẾ BIÊN GIỚI
Điều 30.
Trong việc quản lý đường biên giới và bảo quản
các mốc quốc giới, các đồn Biên phòng hai Bên có nhiệm vụ:
a. Tổ chức quản lý đoạn biên giới và bảo quản
các mốc quốc giới do đồn mình phụ trách.
b. Phát hiện những hiện tượng thay đổi về đường
biên giới trên thực địa, ngăn chặn kịp thời những hành động phá hoại, di chuyển
mốc quốc giới, phát hiện những mốc quốc giới bị phá hoại, bị hư hại, bị di
chuyển và những hiện tượng không bình thường khác, kịp thời thông báo cho đồn
đối diện biết và làm biên bản chung báo cáo lên cấp trên của mỗi Bên sau khi
cùng xem xét hiện trường.
c. Tiến hành kiểm tra liên hợp định kỳ mỗi năm
ít nhất một lần; thời gian kiểm tra định kỳ do các đồn có trách nhiệm liên đới
thoả thuận.
d. Tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng, khôi phục mốc
quốc giới trong phạm vi đồn phụ trách theo kế hoạch của cơ quan biên giới Trung
ương.
Điều 31.
Đồn trưởng biên phòng mỗi bên có nhiệm vụ:
a. Quan hệ với Đồn trưởng biên phòng bên kia
trong việc thực hiện những nhiệm vụ và giải quyết những vấn đề trong phạm vi
thẩm quyền của mình.
Những vấn đề ngoài nhiệm vụ, quyền hạn của mình
thì báo cáo lên cấp trên và chính quyền cấp tỉnh.
b. Tiếp nhận hoặc trao cho Bên kia những người
vi phạm quy chế qua lại biên giới nói ở Điều 29 của Hiệp định này.
c. Phối hợp hoạt động với phía bên kia cùng bảo
vệ an ninh khu vực biên giới.
d. Cấp giấy phép cho công dân khu vực biên giới
phía Bên mình khi có việc phải qua khu vực biên giới Bên kia theo khoản a. Điều
19 của Hiệp định
này.
Điều 32.
Chế độ quan hệ làm việc giữa Đồn trưởng biên
phòng hai Bên quyết định như sau:
a. Tiến hành họp thường kỳ 3 tháng một lần và
họp bất thường nếu cần để giải quyết những công việc đã quy định ở điều 31 của
Hiệp định này.
b. Các cuộc họp thường kỳ được tổ chức luân
phiên họp trên lãnh thổ Bên nào thì Bên đó chịu trách nhiệm về ăn, ở, đi lại,
hoạt động và an ninh. Hai Bên thông báo trước cho nhau biết các vấn đề sẽ nêu
và thành phần dự họp.
c. Đề nghị họp bất thường của Đồn trưởng biên
phòng cần đưa ra cho Đồn trưởng biên phòng Bên kia trước 24 giờ và cần được Đồn
trưởng biên phòng Bên kia chấp thuận.
d. Nếu Đồn trưởng một đồn biên phòng gặp trở
ngại không thể đến họp được, có thể uỷ nhiệm Phó trưởng đồn hoặc người đại diện
có thẩm quyền khác họp thay nhưng cần báo trước cho Đồn trưởng đồn đối diện
biết.
e. Cuộc họp của các Đồn trưởng đồn biên phòng
cần làm biên bản chung ghi rõ thời gian, thành phần, địa điểm, nội dung cuộc
họp, những vấn đề hai Bên đã thống nhất giải quyết, những vấn đề chưa giải
quyết được. Biên bản làm thành hai bản, mỗi bản bằng hai thứ tiếng Việt Nam và
Lào, có chữ ký của Đồn trưởng hai Bên hoặc người được uỷ quyền.
Điều 33.
Chính quyền các tỉnh biên giới có nhiệm vụ:
a. Tổ chức phổ biến rộng rãi và thường xuyên nội
dung Hiệp định về quy chế biên giới cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trong
tỉnh, nhất là trong khu vực biên giới.
b. Chỉ đạo việc quản lý, bảo vệ đường biên giới
và bảo quản hệ thống mốc quốc giới trong phạm vi tỉnh mình phụ trách.
c. Chỉ đạo việc kiểm tra đường biên giới và mốc
quốc giới, theo kế hoạch do cơ quan Biên giới Trung ương hai Bên thoả thuận đề
ra.
d. Theo dõi tình hình công tác biên giới trong
phạm vi tỉnh mình.
e. Liên hệ với đại diện chính quyền cấp tỉnh của
tỉnh biên giới bên kia để giải quyết những sự kiện về biên giới.
g. Báo cáo lên cơ quan Biên giới Trung ương bên
mình tình hình thực hiện quy chế biên giới và những vấn đề không giải quyết
được hoặc ngoài thẩm quyền của mình. Trong khi chờ ý kiến giải quyết của cấp
trên, mỗi Bên cố gắng giữ quan hệ bình thường, không làm cho tình hình phức tạp
hơn.
h. Cử ra một thành viên của Uỷ ban nhân dân tỉnh
(phía Việt Nam) hay Uỷ ban chính quyền tỉnh (phía Lào) phụ trách theo dõi, chỉ
đạo thường xuyên việc thực hiện Hiệp định về quy chế biên giới trong phạm vi
tỉnh mình và đại diện cho tỉnh giải quyết các vấn đề về biên giới với tỉnh biên
giới Bên kia. Người đại diện này có một Phó và một số chuyên viên giúp việc.
i. Các đại diện chính quyền cấp tỉnh có chung
biên giới tiến hành hội nghị khi hai Bên thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của
một Bên. Hai Bên sẽ thoả thuận về thời gian và địa điểm từng hội nghị. Hội nghị
tổ chức trên lãnh thổ Bên nào, Bên đó đảm nhiệm chi phí.
Trong các cuộc họp, nếu xét thấy cần thiết có
thể có đại diện các ngành có liên quan và một số chuyên viên tham dự, nhưng cần
thông báo trước cho Bên kia. Công việc của các kỳ họp được ghi trong biên bản
chung: thời gian, thành phần, địa điểm, nội dung cuộc họp, những vấn đề hai Bên
đã thống nhất giải quyết, những vấn đề chưa giải quyết được. Biên bản làm thành
hai bản, mỗi bản bằng hai thứ tiếng Việt Nam và Lào có chữ ký của đại diện hai
tỉnh.
Điều 34.
a. Cơ quan Biên giới Trung ương của hai Bên được
trao nhiệm vụ trực tiếp quan hệ với nhau để giúp Chính phủ hai Bên chỉ đạo việc
thực hiện Hiệp định này.
b. Hai Bên tiến hành hội nghị cần thiết hoặc
theo đề nghị của một Bên. Hai Bên đã thoả thuận về thời gian và địa điểm hội
nghị. Hội nghị tổ chức trên lãnh thổ Bên nào, Bên đó đảm nhiệm chi phí.
Các hội nghị của cơ quan Biên giới Trung ương
hai Bên nếu xét thấy cần có thể có đại diện các Bộ, ngành và tỉnh biên giới
liên quan cùng các chuyên viên tham dự.
Công việc của mỗi hội nghị của cơ quan Biên giới
Trung ương hai Bên được ghi vào biên bản chung, có chữ ký của Trưởng đoàn đại
biểu hai Bên.
Chương 5:
CÁC ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều 35.
a. Hiệp định này có thể được sửa đổi, bổ sung
theo sự thoả thuận của hai Bên ký kết.
b. Hai Bên ký kết phải giải quyết các bất đồng
có liên quan đến việc giải thích và vận dụng Hiệp định này thông qua thương
lượng giữa cơ quan Biên giới Trung ương hai Bên; nếu không giải quyết được thì
báo cáo lên hai Chính phủ.
Điều 36.
a. Hiệp định này sẽ được phê chuẩn và sẽ có hiệu
lực sau 180 ngày kể từ ngày hai Bên trao đổi thư phê chuẩn.
b. Hiệp định này có giá trị trong 10 năm kể từ
ngày có hiệu lực và tiếp tục có giá trị thêm từng năm năm một nếu sáu tháng
trước khi Hiệp định hết hạn, không Bên nào thông báo bằng công hàm ý định muốn
huỷ bỏ Hiệp định.
Điều 37.
Kể từ ngày Hiệp định này có hiệu lực, Biên bản
về Quy chế đầu tiên về Quy chế biên giới giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ký ngày 3 tháng 7 năm 1978 tại Viêng Chăn
mặc nhiên không còn giá trị nữa.
Làm tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 1 tháng 3 năm
1990 thành hai bản, mỗi bản bằng hai thứ tiếng Việt Nam và Lào, cả hai văn bản
đều có giá trị như nhau.